Ngụy vương Bắc_Ngụy_Đạo_Vũ_Đế

Thiết lập quyền cai trị

Những năm đầu tiên trị vì, Thác Bạt Khuê phải quyết định theo ý kiến của các thủ lĩnh bộ lạc, và vị trí của ông không được chắc chắn. Tuy nhiên, sau đó ông đã từng bước khẳng định được vị thế lãnh đạo, và các thủ lĩnh bộ lạc bắt đầu kết hợp lại quanh ông.

Vào tháng 2 ÂL năm 386, Thác Bạt Khuê định đô tại Thịnh Lạc (盛樂, nay thuộc Hohhot, Nội Mông), và khuyến khích người dân phát triển nông nghiệp. Tháng 4 ÂL năm 386, ông đổi tước hiệu của mình thành Ngụy vương và do vậy nhà nước ông cai trị cũng được lịch sử biết đến với cái tên Bắc Ngụy.

Vào mùa thu năm 386, với sự trợ giúp của Tây Yên và Lưu Hiển, thúc phụ trẻ tuổi nhất của Thác Bạt Khuê là Thác Bạt Quất Đốt (拓拔窟咄) xưng vương, khi đó nhiều tù trưởng dưới quyền Thác Bạt Khuê bí mật liên kết với Thác Bạt Quất Đốt, Thác Bạt Khuê hoảng sợ đến nỗi phải chạy đến chỗ Hạ Lan bộ, và tìm kiếm trợ giúp của Hậu Yên. Hoàng đế Mộ Dung Thùy của Hậu Yên cử con trai Mộ Dung Lân đến hỗ trợ cho Thác Bạt Khuê, và họ cùng nhau đánh bại được Thác Bạt Quất Đốt, Quất Đốt phải chạy trốn và bị Lưu Vệ Thần giết chết.

Tháng 12 ÂL năm đó, Mộ Dung Thùy ban cho Thác Bạt Khuê các tước hiệu Tây Thiền vu và Thượng Khuê vương, song do tước Thượng Khuê vương không danh giá bằng Ngụy vương nên Thác Bạt Khuê từ chối chúng.

Mặc dù đã được Hậu Yên giúp đỡ và là một chư hầu của Hậu Yên, song Thác Bạt Khuê bắt đầu tính đến việc cuối cùng sẽ chinh phạt Hậu Yên. Năm 388, ông cử em họ Thác Bạt Nghi đi triều cống Mộ Dung Thùy song cũng là để nhằm quan sát triều đình Hậu Yên. Thác Bạt Nghi kết luận rằng Mộ Dung Thùy nay đã lớn tuổi, còn thái tử Mộ Dung Bảo thì lại kém cỏi, và có khả năng Hậu Yên sẽ bị suy yếu. Điều này đã khích lệ Thác Bạt Khuê rất nhiều trong việc lập kế hoạch diệt Hậu Yên.

Năm 391, em trai của Hạ Lan Nột là Hạ Lan Nhiễm Can (賀蘭染干) âm mưu giết chết Hạ Lan Nột, và dẫn đễn việc huynh đệ giao chiến chống lại nhau. Thác Bạt Khuê nắm lấy cơ hội này để yêu cầu Hậu Yên cùng tiến đánh Hạ Lan bộ (mặc dù cả Hạ Lan Nột và Hạ Lan Nhiễm Can đều là huynh đệ của mẹ ông theo như Nguỵ thư). Vào mùa hè năm 391, Mộ Dung Lân bắt được Hạ Lan Nột và Hạ Lan Nhiễm Can, song lại cho phép Hạ Lan Nột được tự do và chỉ huy bộ lạc, còn Hạ Lan Nhiễm Can thì trở thành tù binh. Sau chiến dịch này, Mộ Dung Lân đã nhận thấy được khả năng của Thác Bạt Khuê nên đã đề xuất với phụ hoàng rằng hãy bắt giam Thác Bạt Khuê. Tuy nhiên, Mộ Dung Thùy từ chối.

Vào tháng 7 ÂL năm 391, một sự kiện đã khiến cho Hậu Yên và Bắc Ngụy tuyệt giao với nhau. Khi đó, Thác Bạt Khuê cử Thác Bạt Cô (拓跋觚) đi triều cống Hậu Yên, và các con trai của Mộ Dung Thùy đã giữ Thác Bạt Cô lại và lệnh cho Thác Bạt Khuê phải mang ngựa đến để đổi lấy tự do cho Thác Bạt Cô. Thác Bạt Khuê đã từ chối và đoạn tuyệt quan hệ với Hậu Yên, thay vào đó, ông quay sang liên minh với Tây Yên.

Thù địch với Hậu Yên

Cương vực các nước thời Thập Lục Quốc, khoảng 386-394

Năm 391, Thác Bạt Khuê tấn công Nhu Nhiên, Nhu Nhiên bị thiệt hại nặng nề song không bị tiêu diệt. Nhu Nhiên sau đó vẫn tiếp tục quấy nhiễu, và là một mối đe dọa thường xuyên trong suốt thời gian còn lại của triều đại Bắc Ngụy.

Tháng 10 ÂL năm 391, Lưu Vệ Thần đã cử con trai Lưu Trực Lực Đê (劉直力鞮) đem quân đi đánh Bắc Ngụy, ngày Ất Mão tháng 11 (22 tháng 12 năm 391), Thác Bạt Khuê dân binh cự chiến với một đội quân nhỏ hơn nhiều, đến ngày Nhâm Ngọ tháng 11 (25 tháng 12) ông đánh bại dược Lưu Trực Lực Đê, và thậm chí còn băng qua Hoàng Hà để tiến đánh kinh thành Duyệt Bạt (悅拔, nay thuộc Ordos, Nội Mông) của Lưu Vệ Thần, và cuối cùng chiếm được thành, buộc Lưu Vệ Thần và Lưu Trực Lực Đê phải chạy trốn vào ngày Tân Mão cùng tháng (tức 3 tháng 1 năm 392). Ngày hôm sau, Lưu Vệ Thần bị các thuộc cấp giết chết, còn Lưu Trực Lực Đê thì bị bắt. Thác Bạt Khuê sáp nhập lãnh thổ và thần dân của Lưu Vệ Thần vào Bắc Ngụy, song thảm sát gia tộc họ Lưu và những người có liên hệ với tổng số trên 5.000 người. Tuy nhiên, một người con trai trẻ tuổi của Lưu Vệ Thần là Lưu Bột Bột chạy trốn được đến chỗ bộ lạc Tiết Can (薛干), tộc trưởng Thái Tất Phục (太悉伏) của bộ lạc này từ chối giao nộp Lưu Bột Bột bất chấp lời yêu cầu của Bắc Ngụy. Lưu Bột Bột cuối cùng kết hôn với một con gái của Cao Bình công Một Dịch Can (沒奕干, một chư hầu của Hậu Tần), và trở nên phụ thuộc vào nhạc phụ. Để trừng phạt Thái Tất Phục, Thác Bạt Khuê tấn công Tiết Can bộ vào năm 393 và thảm sát bộ lạc này, song bản thân Thái Tất Phục chạy thoát.

Năm 394, Hoàng đế Mộ Dung Vĩnh của Tây Yên lúc này đang bị Mộ Dung Thùy tấn công, ông ta tìm kiếm trợ giúp từ Thác Bạt Khuê, Thác Bạt Khuê cử Trần Lưu công Thác Bạt Kiền (拓拔虔) và tướng Dữu Nhạc (庾岳) cố làm quân Hậu Yên rối trí, song quân Bắc Ngụy chưa từng thực sự giao chiến với Hậu Yên, cuối cùng thì Mộ Dung Vĩnh bị Mộ Dung Thùy bắt được và giết chết khi kinh thành Trường Tử (長子, nay thuộc Trường Trị, Sơn Tây) thất thủ, Tây Yên bị Hậu Yên thôn tính.

Năm 395, Thác Bạt Khuê dẫn quân đột kích các vùng biên giới với Hậu Yên. Cũng trong năm đó, Mộ Dung Thùy cho Mộ Dung Bảo dẫn 8 vạn quân với sự hỗ trợ của Mộ Dung Nông và Mộ Dung Lân nhằm trừng phạt Bắc Ngụy. Thác Bạt Khuê hay tin về đội quân của Mộ Dung Bảo thì quyết định bỏ Thịnh Lạc và rút lui về phía tây qua Hoàng Hà. Quân của Mộ Dung Bảo nhanh chóng tiến đến sông vào mùa thu năm 395 và chuẩn bị để vượt sông. Tuy nhiên, lúc này Bắc Ngụy cắt đường đường thông tin giữa quân của Mộ Dung Bảo và kinh thành Trung Sơn (中山, nay thuộc Bảo Định, Hà Bắc) của Hậu Yên, và Bắc Ngụy phao tin rằng Mộ Dung Thùy qua đời, khiến cho quân Hậu Yên gặp phải xáo trộn rất lớn. Quân Hậu Yên và Bắc Ngụy lâm vào thế bí trong việc vượt qua Hoàng Hà trong suốt 20 ngày. Những người đi theo Mộ Dung Lân cố tiến hành chính biến và ủng hộ Mộ Dung Lân trở thành lãnh đạo mới, song hành động này đã thất bại. Khi mùa đông đến, quân Hậu Yên rút lui và không nhận ra rằng Hoàng Hà lúc này đã đóng băng và quân Bắc Ngụy có thể qua sông một cách dễ dàng, Mộ Dung Bảo cũng không để lại hậu quân khi rút lui. Thác Bạt Khuê đích thân dẫn quân đuổi theo, bắt kịp được quân Hậu Yên và hai bên nổ ra một trận chiến được sử sách gọi là trận Tham Hợp Pha vào ngày 8 tháng 12 DL, quân Bắc Ngụy giết hoặc bắt giữ gần như toàn bộ quân Hậu Yên, chỉ có Mộ Dung Bảo cùng một số quan tướng là có thể chạy thoát. Thác Bạt Khuê lo sợ trước những tù binh Hậu Yên nên đã đồ sát tất cả họ theo đề xuất của Khả Tần Kiến (可頻建).

Năm 396, lo ngại rằng Bắc Ngụy sẽ xem thường Mộ Dung Bảo, Mộ Dung Thùy đích thân dẫn quân đi đánh Bắc Ngụy, giành được chiến thắng ban đầu và giết được Thác Bạt Kiền. Thác Bạt Khuê trở nên lo lắng và lại tính đễn việc bỏ Thịnh Lạc. Tuy nhiên, khi quân Hậu Yên đi qua Tham Hợp pha, họ than khóc cho những thân nhân và đồng bào của mình, Mộ Dung Thùy vì thế đã trở nên tức giận và lâm bệnh, quân Hậu Yên buộc phải rút lui về Trung Sơn. Sau khi Mộ Dung Thùy chết, Mộ Dung Bảo trở thành hoàng đế Hậu Yên.

Vào mùa thu năm 396, Thác Bạt Khuê đã dẫn quân Bắc Ngụy tấn công bất ngờ Tĩnh Châu (并州, nay là trung bộ và bắc bộ Sơn Tây), đánh bại Mộ Dung Nông và buộc Nông phải chạy trốn về Trung Sơn. Thác Bạt Khuê sau đó tiến quân về phía đông, sẵn sàng đánh thành Trung Sơn. Nghe theo đề xuất của Mộ Dung Lân, Mộ Dung Bảo đã chuẩn bị phòng thủ Trung Sơn và để cho quân Bắc Ngụy tự do di chuyển trên khắp lãnh thổ Hậu Yên, Mộ Dung Bảo cho rằng Bắc Ngụy sẽ phải rút quân khi quân lính kiệt sức. Tuy nhiên, điều này đã dẫn đến việc tất cả các thành tại Hà Bắc ngày nay rơi vào tay Bắc Ngụy, ngoại trừ Trung Sơn và hai thành quan trọng khác là Nghiệp Thành (thuộc Hàm Đan, Hà Bắc) và Tín Đô (信都, nay thuộc Hành Thủy, Hà Bắc). Sau một nỗ lực ban đầu nhằm tiến đánh Trung Sơn gặp phải thất bại, Thác Bạt Khuê thay đổi kế sách của mình bằng việc thiết lập quyền cai trị tại các thành khác trong lúc cô lập Trung Sơn. Vào ngày Quý Hợi tháng 1 năm Đinh Dậu (9 tháng 3 năm 397), Tín Đô thất thủ. Tuy nhiên, Thác Bạt Khuê lúc này lại hay tin về một cuộc nổi loạn gần kinh đô Thịnh Lạc của mình nên đã cầu hòa với Hậu Yên, tuy vậy, Mộ Dung Bảo bác bỏ. Mộ Dung Bảo sau đó đã tấn công quân Bắc Ngụy khi Thác Bạt Khuê chuẩn bị rút lui, song chính Mộ Dung Bảo lại là người bại trận. Lúc này, lo lắng về một nỗ lực chính biến của Mộ Dung Lân, Mộ Dung Bảo đã quyết định bỏ Trung Sơn và chạy trốn về cố đô Long Thành (龍城, nay thuộc Cẩm Châu, Hà Bắc) của Tiền Yên trước đây. Đội quân Hậu Yên còn ở lại Trung Sơn ủng hộ một cháu trai của Mộ Dung Bảo là Khai Phong công Mộ Dung Tường (慕容詳) làm lãnh đạo, do đó Thác Bạt Khuê không thể ngay lập tức chiếm được Trung Sơn. Nhận thấy rằng mình bị người dân Hậu Yên xa lánh do từng ra lệnh đồ sát tù binh Hậu Yên sau trận Tam Hợp pha trước đây, Thác Bạt Khuê thay đổi chính sách và cố gắng đối xử nhẹ nhàng tại các lãnh thổ mới chính phục được của Hậu Yên, và theo thời gian thì các lãnh thổ này cũng dần trung thành với quyền cai trị của ông.

Trong lúc này, Mộ Dung Tường đã tự xưng đế, và cho xử tử Thác Bạt Cô để thể hiện kiên quyết. Tuy nhiên, vào mùa thu, Mộ Dung Lân đã tấn công bất ngờ Mộ Dung Tường, giết chết Tường và chiếm lấy Trung Sơn. Mộ Dung Lân cũng xưng đế song đã không thể đứng vững trước sức ép từ quân Bắc Ngụy, cuối cùng thì Thác Bạt Khuê đã chiếm được Trung Sơn. Thác Bạt Khuê sau đó đã đối xử tốt với dân cư Trung Sơn bất chấp sự kháng cự của họ, song ông đã cho thảm sát các gia tộc ủng hộ việc giết chết Thác Bạt Cô. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, quân của Thác Bạt Khuê đã mắc phải một bệnh dịch nghiêm trọng và có đến một nửa binh sĩ và vật nuôi bị chết. Khi các tướng của ông thuyết phục ông đình chỉ các chiến dịch, Thác Bạt Khuê từ chối.

Khoảng tết năm 398, khi Thác Bạt Khuê đã sẵn sàng tiến đánh Nghiệp Thành, người trấn thủ Nghiệp Thành là Mộ Dung Đức đã bỏ thành và chạy về phía nam Hoàng Hà để đến Hoạt Đài (滑台, nay thuộc An Dương, Hà Nam), và lập ra nước Nam Yên. Thác Bạt Khuê sau đó đã để Thác Bạt Nghi và Tố Hòa Bạt (素和跋) cai quản lãnh thổ cũ của Hậu Yên còn mình trở về Thịnh Lạc. Để tăng cường thông tin và sự kiểm soát, Thác Bạt Khuê cho mở đường giữa Vọng Đô (望都, nay thuộc Bảo Định, Hà Bắc) và Đại (代, nay thuộc Trương Gia Khẩu, Hà Bắc), qua Thái Hành Sơn. Tuy nhiên, ngay sau đó ông đã triệu hồi Thác Bạt Nghi về làm thừa tướng và thay thế vị trí của Nghi bằng một người họ hàng là Lược Dương công Thác Bạt Tuân (拓拔遵).

Vào mùa hè năm 398, Thác Bạt Khuê đã tính đến việc phục hồi lại quốc hiệu Đại, song vì nghe theo lời của Thôi Hoành (崔宏), ông vẫn giữ quốc hiệu Ngụy. Thác Bạt Khuê dời đô từ Thịnh Lạc về phía nam đến Bình Thành (平城, nay thuộc Đại Đồng, Sơn Tây), để gần hơn về mặt địa lý với các lãnh thổ chinh phục được. Ông cũng ban hành các chiếu chỉ chuẩn hóa đo lường trong cả nước, và lập ra các lễ kỉ niệm chính thức dựa trên các truyền thống của người Hán và người Tiên Ti.

Ngày Kỷ Sửu tháng 12 năm Mậu Tuất (24 tháng 1 năm 399), Thác Bạt Khuê xưng đế. Ông cũng tự coi mình là hậu duệ của Hoàng Đế, và do đó có quyền cai trị hợp pháp đối với người Hán.